CDAV9 Family
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

CDAV9 Family


 
Trang ChínhTrang Chính  PortalPortal  GalleryGallery  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Vào ngay chuyên mục "Alo ^ bạn cũ" nha mọi người. Miss ya'll "Adversity reveals genius, prosperity conceals it"
CÓ BẰNG TỐT NGHIỆP DHAV2, CDAV9 (26-11-2010) Phòng Đào tạo đã in bằng tốt nghiệp của những Sinh viên DHAV2, CDAV9 nộp chứng chỉ tiếng hoa và tin học trễ. Sinh viên DHAV2, CDAV9 mang theo chứng minh nhân dân đến nhận tại văn phòng khoa Ngoại Ngữ. Khoa Ngoại ngữ sẽ phát bằng tốt nghiệp vào sáng thứ 4 và sáng thứ 7 hàng tuần

 

 Tiếng Anh bài 10

Go down 
Tác giảThông điệp
k_k
Admin
k_k


Tổng số bài gửi : 139
Join date : 28/05/2009
Age : 36
Đến từ : Tây Ninh - quê hương tui

Tiếng Anh bài 10 Empty
Bài gửiTiêu đề: Tiếng Anh bài 10   Tiếng Anh bài 10 EmptyWed Apr 28, 2010 10:23 pm

Người viết: Thái Bá Tân
16/02/2010

Những lỗi thông thường về văn phạm

Sáng nay tôi phải đọc duyệt một bài báo (bản thảo) của một nhóm nghiên cứu Hàn Quốc, và qua đó tôi phát hiện rất nhiều sai lầm trong cách diễn tả và những sai sót văn phạm rất … Á đông. Một trong những sai lầm phổ biến nhất ở người châu Á khi mới học tiếng Anh là cách sử dụng mạo từ (a và the). Nhưng một số sai lầm tiêu biểu còn thể hiện qua cách sử dụng dấu phẩy nữa. Ngoài ra, còn có sai sót mang tính nội dung và logic về cách cấu trúc một câu văn (sentence) và một đoạn văn. Tôi không thể trích dẫn nhưng sai sót của bài báo này vì đang trong vòng phản biện kín, nên tôi chỉ có thể mượn bài báo để bàn đến một số sai sót phổ biến mang tính Á đông.

1. Thiếu dấu phẩy sau nhóm từ dẫn nhập. Chẳng hạn như “After the analysis of blood samples of TB patients we continued to isolate PPG”, đáng lẽ phải có dấu phẩy sau chữ “patients”.


2. Thiếu dấu phẩy trong một câu văn ghép (compound sentence). Một câu văn ghép thường bao gồm 2 mệnh đề độc lập nhau nhưng nối với nhau bằng một giới từ như for, and, nor, but, or, yet, so. Một sai lầm phổ biến là thiếu dấu phẩy giữa hai mệnh đề như câu sau đây: “Many studies show that high body weight is associated with high bone mass and moreover reductions in body weight may cause bone loss”. (Đáng lẽ phải có dấu phẩy trước and. Thật ra, câu này còn có vài sai sót khác nữa, nhưng tôi không bàn ở đây).

3. Thiếu dấu phẩy trong các mệnh đề không giới hạn (nonrestrictive clauses). Cần phân biệt mệnh đề giới hạn và không giới hạn. Chẳng hạn như câu "My brother in the red shirt likes ice cream," nếu người viết có 2 người anh, thì thông tin về cái áo màu đỏ là giới hạn (restrictive). Nếu là restrictive clause thì chúng ta không cần dấu phẩy. Tuy nhiên, nếu người viết chỉ có 1 người anh, thì thông tin về cái áo đỏ không cần thiết để chỉ người đó, và đây là mệnh đề không giới hạn. Mệnh đề không giới hạn cần có dấu phẩy như ví dụ sau đây: "My brother, in the red shirt, likes ice cream."

4. Dấu phẩy nối. Một dấu phẩy nối (comma splice) xày ra khi hai mệnh đề độc lập nối vơi nhau bằng một dấu phẩy. Chẳng hạn như "Picasso was profoundly affected by the war in Spain, it led to the painting of great masterpieces like Guernica." Một dấu phẩy nối cũng có thể sử dụng để chia một chủ từ từ một động từ. Ví dụ như trong câu "The young Picasso felt stifled in art school in Spain, and wanted to leave," chủ từ Picasso bị tách ra từ một trong những động từ của nó là wanted. Đáng lẽ không cần dấu phẩy trong câu này, ngoại trừ tác giả muốn nhấn mạnh bằng văn phạm, nhưng đây là trò chơi nguy hiểm đối với những ai chưa thạo viết tiếng Anh.

5. Thiếu dấu phẩy trong một chuỗi sự vật. Khi liệt kê một chuỗi sự vật, nên dùng dấu phẩy là điều ai cũng biết, nhưng vấn đề tranh cãi là có nên dùng dấu phẩy trước sự vật sau cùng. Ví dụ như trong câu “Apples, oranges, pears, and bananas...”, vấn đề đặt ra là có nên dùng dấu phẩy trước “and”. Người Mĩ và Canada thì nói nên, còn người Anh và Úc thì nói không nên. Cá nhân tôi thích kiểu viết của Mĩ (tôi có nhiều lí do để nói như thế) nên tôi hay dùng dấu phẩy trước chữ “and” để làm câu văn rõ ràng hơn.

6. Đại danh từ mù mờ. Ví dụ như trong câu “The boy and his father reported that he had had a history of fragility fracture”, chúng ta không biết người viết đề cập đến người con trai hay là người cha có tiền sử gãy xương.

7. Dùng sai từ. Cái này thì quá hiển nhiên, nhưng dùng từ cho đúng trong khoa học không phải là chuyện dễ dàng vì nó đòi hỏi người viết phải am tường vấn đề chuyên môn và cập nhật với thông tin. Chẳng hạn như trong câu vừa trích trên, đáng lẽ tác giả phải viết là “bone mineral density” chứ không phải “bone mass”, vì hai thuật ngữ này rất khác nhau về khái niệm. Trong y học, chúng ta cần phân biệt giữa “association” và “relationship”. Nếu là nghiên cứu bệnh chứng, hay nghiên cứu một thời điểm (cắt ngang hay cross-sectional), thì mối liên hệ giữa hai yếu tố nên được mô tả bằng thuật ngữ association hơn là relationship. Chỉ khi nào chúng ta có bằng chứng can thiệp trong nghiên cứu thử nghiệm thì mới sử dụng relationship thay cho association. Ngoài ra, đừng nên lạm dụng thuật ngữ “linkage” vì nó chỉ sử dụng cho các nghiên cứu và phân tích di truyền trong gia đình, chứ không phải cho các nghiên cứu quần thể.

8. Thiếu hay viết sai “inflected ends”. "Inflected ends" là thuật ngữ nói đến một nhóm lỗi về văn phạm liên quan đến sự nhất quán của chủ đề và động từ (subject-verb agreement), hay sai sót về who/whom, v.v... Trong tiếng Anh, khi chúng ta thêm một mẫu tự hay âm tiết (syllable) phía sau một từ chúng ta có thể thay đổi ý nghĩa và chức năng văn phạm của câu văn. Chẳng hạn như thêm "ed" vào một động từ chúng ta chuyển động từ đó thành thì quá khứ (ai cũng biết!), nhưng có thể biến thành một tính từ, hay thêm "s" vào một danh từ làm cho danh từ có số nhiều, nhưng cũng có khi biến thành một tính từ.

9. Sai hay thiếu giới từ. Giới từ có khi rất … nguy hiểm. Thử xem hai cách viết "Our sample is different from the American sample" và "Our sample is different than the American sample", câu nào tốt hơn? Mặc dù cả hai cách viết/nói được sử dụng phổ biến, nhưng "different from" được xem là chuẩn hơn. Tương tự, người ta vẫn còn tranh luận chung quanh chữ "toward" và "towards." Mặc dù cả hai đều sử dụng khá nhiều, nhưng hình như "toward" được sử dụng nhiều hơn (còn người Anh thì sử dụng towards nhiều hơn toward).

10. Dùng thì không đúng. Cần cẩn thận trong cách dùng thì quá khứ và hiện tại trong khi viết báo cáo khoa học. Thông thường, khi đề cập đến y văn trong quá khứ thì nên dùng thì quá khứ, nhưng nếu một mối hiên hệ hay sự kiện đã được chấp nhận như là “sự thật” thì có thể dùng thì hiện tại. Chẳng hạn như “Previous studies have shown that high blood pressure was a risk of stroke”, nhưng cũng có thể viết “high blood pressure is a risk of stroke” vì mối quan hệ này được chấp nhận là sự thật. Khi viết báo cáo nghiên cứu của chính mình, cũng nên dùng thì quá khứ. Tuy nhiên, khi đề cập đến một biểu đồ hay bảng số liệu ngay trong paper thì nên dùng thì hiện tại, chẳng hạn như trong câu “Figure 1 shows that diabetes was associated with an increased risk of stroke”, chúng ta dùng “shows” thay vì “showed”, nhưng khi báo cáo về fact thì chúng ta dùng thì quá khứ “was associated”.

11. Những câu văn vô duyên, vô ý. Đây là cách viết đáng “ghét” nhất, vì đọc một câu văn (fragmented sentence) mà chẳng có ý gì hoàn chỉnh, làm mất thì giờ. Chẳng hạn như câu văn “In Japan, during the last decade and just before the NOF year” này chẳng nói lên cái gì cả, vì chẳng có chủ từ và động từ. Còn loại văn như sau “Some of the students working in Professor Sminth’s laboratory last semester” còn vô duyên hơn vì tôi chẳng biết tác giả muốn nói cái gì. Tôi chú ý là có rất nhiều sinh viên Việt Nam viết văn theo kiểu này, và nó nói lên tác giả chẳng có ý tứ gì hay chẳng biết mình muốn nói gì. Rất dở.

12. Dùng từ bổ nghĩa (modifier) sai. Từ bổ nghĩa là những tính từ, trạng từ, hay mệnh đề mà người viết muốn khai triển thêm. Nếu từ bổ nghĩa được sử dụng đúng, câu văn sẽ có thể rất “kêu”, rất “thơ”, nhưng nếu dùng sai thì câu văn trở nên rất vô duyên. Thử đọc câu này “The professor wrote a paper on obesity in his office” rất buồn cười, bởi vì béo phì xảy ra trong văn phòng của ông giáo sư chăng? Hay là văn phòng làm việc của ông ấy là nơi ông viết về béo phì? Chúng ta không biết khi đọc câu văn đó. Nhưng nếu viết “In his office, the professor wrote a paper on obesity” thì câu văn rõ ràng hơn.

Có khi người viết dùng từ bổ nghĩa một cách … đong đưa, và đây cũng là lỗi cần phải tránh. Thử đọc câu văn sau đây: “Walking through the laboratory, my heart ached” làm người đọc có thể hiểu rằng tim của người viết bị đau khi bước qua phòng thí nghiệm! Có lẽ một cách viết chuẩn hơn là “Walking through the laboratory, I felt an ache in my heart”.

13. Nhất quán giữa chủ từ và động từ (subject-verb agreement). Đây là vấn đề “muôn thủa” của “phe ta”, và tôi sẽ quay lại trong một dịp khác. Nhưng ở đây, tôi sưu tầm một vài qui ước phổ biến nhất như sau:

Khi chủ từ số ít được nối kết với nhau bằng “and” thì chủ đề thành số nhiều: Both the architect and the interior designer like to push artistic boundaries.

Những đại danh từ bất định (indefinite pronouns) như someone, anyone, no-one, anybody, somebody, nobody, one, either, neither thường được xem là số ít: No-one likes to fail at university.

Những danh từ với some, any, all, most có thể số ít nhưng cũng có thể số nhiều, tùy thuộc vào danh từ có thể đếm được (countable) hay không đếm được (uncountable): Some of the policies were rejected whilst others were approved (policies là một danh từ có thể đếm được) nhưng “Some of the research was conducted at the University” (research là một danh từ không thể đếm được)

Một chủ từ nối bằng ‘either…or’, ‘neither…nor’, hay ‘not only…but also’, thì động từ nên chia theo chủ đề gần nhất: Neither the lecturer nor the students want to reschedule the class. (want nhất quán với students)

Vấn đề khó khăn khi câu văn có chủ đề là một danh từ tập hợp (collective noun) hay đại danh từ tập hợp. Ví dụ như “The committee want a resolution to the problem” là sai vì committee (ủy ban) là một thực thể (dù thực thể đó có nhiều thành viên) cho nên chúng ta nên viết “The committee wants a resolution to the problem”.

Nhiều người nhầm lẫn đại danh từ Everyone và Their. Chẳng hạn như trong câu "Everyone is entitled to their opinion," chữ their đáng lẽ phải là his/her bởi vì "everyone" là đại danh từ số ít.

Lời nhắn các bạn trẻ:

Kinh nghiệm của tôi và nhiều đồng nghiệp khác khi tiếp xúc với người Việt, nhất là những người từng đi du học ở nước ngoài vài năm, cho thấy họ thường rất tự tin về tiếng Anh. Có người còn nói rằng họ làm thông dịch cho các chuyên gia nước ngoài, như là một bằng chứng về khả năng Anh ngữ của họ. Tôi có cảm giác họ chẳng cần học gì thêm nữa. Nhưng kinh nghiệm cá nhân tôi, người từng sống và làm việc trong môi trường nói tiếng Anh cả vài chục năm, tôi vẫn thấy mình rất dốt tiếng Anh. Có thể tôi không có năng khiếu với tiếng Anh, nhưng tôi thấy ngay cả đồng nghiệp tôi sinh ra và lớn lên ở Úc, ở Mĩ, ở Anh, những người ở hàng giáo sư mà vẫn sai phạm tiếng Anh như thường. Nên nhớ rằng văn phạm không chỉ là những qui định mang tính bất biến. Văn phạm thật ra là một cấu trúc ngôn ngữ thay đổi theo thời gian. Chính vì thế mà văn phạm là chủ đề của nhiều nghiên cứu và phân tích của giới khoa bảng. Do đó, tôi muốn nhắn với các bạn sinh viên trẻ là: học, học nữa và học mãi tiếng Anh. Đừng nên quá tự tin mà thất bại thê thảm khi ra nước ngoài.

NVT

Tiếng Anh bài 11: Cách dùng từ

Một bài báo khoa học dễ hiểu là bài được viết bằng những từ ngữ đơn giản, và cách sử dụng từ ngữ một cách … kinh tế. Viết đơn giản có lẽ là một lời khuyên phổ biến, nhưng kinh nghiệm của tôi cho thấy nhiều sinh viên khi mới vào nghề thường sử dụng những từ cầu kì, và hệ quả là câu văn trở nên khó hiểu. Nên nhớ rằng mục tiêu của chúng ta – tác giả bài báo khoa học – là muốn công trình của mình đến với nhiều đồng nghiệp quốc tế, những người có thể chưa thạo tiếng Anh. Do đó, sử dụng những từ ngữ đơn giản và viết súc tích là một kĩ năng rất quan trọng.

1. Tránh những từ kém thông tin và rườm rà. Những nhóm từ rườm rà là những nhóm từ có 2 hay nhiều từ có cùng ý nghĩa hay nói lên một ý. Chẳng hạn như brief in duration có thể viết đơn giản hơn là brief. Tương tự, sufficient in number có thể chỉ đơn giản là sufficient. Câu the wound was of a serious in nature có thể viết gọn là the wound was of a serious, hay the solution was red in color có thể đơn giản hóa thành the solution was red (vì red là màu). Một lỗi tôi thường hay thấy là cách viết we repeated the experiment again, trong đó repeated và again nói cùng ý; do đó, có thể viết đơn giản hơn là we repeated the experiment.

Bài tập: Bây giờ các bạn thử viết lại những nhóm từ sau đây đơn giản hơn, bằng cách bỏ những từ không cần thiết hay những từ thừa.

• We carefully investigated
• The past history of this concept …
• They mixed together
• Twenty human volunteers were recruited
• The original source for this work was …
• Advance planning
• Globular in shape
• This x-ray film is more preferable than
• It seems to appear
• For a period of several minutes, the animals had been in a stressful condition
• The role of cobra toxin is still a matter for speculation
• The work will be completed in the not-too-distant future
• The reaction rate was examined and found to vary considerably
• The results would seem to indicate the possibility that impurities might be present
• As a result of these experiments it became quite evident that overheating of the samples had occurred
• As far as my own experiments are concerned, they show …
• It has been found that …
• It is interesting to note that …
• Needless to say …


2. Đơn giản một nhóm từ bằng một từ

Có nhiều phát biểu mà trong thực tế có thể chỉ cần 1 từ là đủ, hay thậm chí không cần thiết. Chẳng hạn như at this point in time có thể viết đơn giản hơn là now. Hay như the reason was because cũng có thể chỉ viết because là đủ.

Bạn thử viết lại những cụm từ sau đây đơn giản hơn:

• In view of the fact that
• Was observed to be
• In the near future
• In most cases
• It would appear that
• Is suggestive of
• As to whether
• In the vincinity of
• It was evident that
• In the event that

3. Tránh những từ “đao tao búa lớn”. Tiếng Anh gọi những từ to lớn là grandiloquence, hàm ý nói những từ hoa mĩ, tráng lệ, mà hình như người viết muốn gây ấn tượng cho người đọc. Abraham Lincoln đọc bài diễn văn Gettysburg ngắn gọn làm nãn lòng nhiều người lúc đó, nhưng đến nay ai cũng công nhận đó là một trong những bài diễn văn hay nhất và có hiệu quả nhất trong lịch sử chính trị thế giới. Trong khoa học cũng vậy, chúng ta cần phải tránh những từ hoa mĩ, và chọn những từ đơn giản, dễ hiểu để thông tin trong bài báo có thể chuyển tải đến nhiều đồng nghiệp.

Các bạn thử viết lại những câu sau đây đơn giản hơn:

• Computations were conducted on the data

• It may seem reasonable to suggest that the necrotic effect may possibly be due to toxin

• In studies pertaining to identification of phenolic derivatives, drying of the paper gives less satisfactory visualization

• A method, which was found to be expedient and not very difficult to accomplish and which possessed a high degree of accuracy on its results, was devised whereby …

4. Tránh sáo ngữ (cliché) và uyển ngữ (euphemism), vì những từ ngữ này có khi rất khó hiểu. Chẳng hạn như all in all thì hoàn toàn không cần thiết, còn if and when thì có thể thay thế bằng if.

Một số sáo ngữ trong y khoa tôi thường thấy là the patient expired, the patient passed away, the patient succumbed, the patient breathed his last, the patient has gone to his rest, v.v… có thể chỉ đơn giản viết là the patient died. Ai cũng hiểu die là gì, nhưng ít ai hiểu succumbed hay gone to his rest.

Các bạn thử viết lại những cụm từ hay câu văn sau đây:

• Unless and until
• It goes without saying
• Within the realm of possibility
• We sacrificed the animal
• We performed euthanasia on the animal

Tôi sẽ cung cấp câu trả lời hay gợi ý trả lời sau.

Tiếng Anh bài 12: Mạo từ

Có lẽ cách học tiếng Anh có hiệu quả nhất là học từ lỗi. Bài vừa qua (bài số 11) đã được các bạn đọc chào đón nồng nhiệt. Có cả 10 emails các bạn nói nên chỉ ra những lỗi tiếng Anh để các bạn học từ đó. Hôm nay là mồng 3 Tết, và tôi nhân dịp này bàn với các bạn cách dùng mạo từ. Chỉ dẫn về cách dùng mạo từ rất nhiều trên internet và sách giáo khoa, nên tôi không ê a nhắc lại. Tôi chỉ nói vài ý chính của cách dùng mạo từ.

Thứ nhất là tính xác định. Một danh từ xác định (definite noun) khi danh từ đó được cả người đọc và người viết biết đến. Chẳng hạn như nếu tôi đang muốn dùng cái máy DXA, tôi có thể hỏi kĩ thuật viên: “Can I use the DXA machine?” Tôi dùng the ở đây vì cả tôi và kĩ thuật viên đều biết cái mày mà tôi nói đến. Nhưng nếu một sự vật mà chỉ có tôi hay bạn biết thì phải dùng mạo từ a/an. Chẳng hạn như nếu tôi nói với bạn rằng “I saw a funny-looking car today”, tôi dùng mạo từ a bởi vì chỉ có tôi biết cái xe đó, còn bạn thì không biết.

Sau đây là 5 nguồn để biết một danh từ xác định hay không.

1. Danh từ đó đã được đề cập trước: I saw a funny-looking professor yesterday [lần đầu tiên nói về một ông giáo sư không xác định]. He looked like an artist rather than an academic. When he saw me, the professor walked toward my car [lần thứ hai, đề cập đến ông giáo sư theo thể xác định].

2. Một so sánh hay một tính từ so sánh làm cho danh từ trở nên cụ thể: The tallest man in the crowd is 2 m tall. [chỉ có một người đàn ông cao nhất trong đám đông]. Ví dụ khác: Please read the fourth paragraph on page 3. [Chỉ có 1 đoạn văn số 4 trong trang.] Today is the most important day of my life. [Chỉ có 1 ngày quan trọng nhất]

3. Danh từ mô tả một cá nhân, một địa điểm hay một sự vật cá biệt:

The earth revolves around the sun once every 365 days. [Chỉ có 1 trái đất và 1 mặt trời.]

4. Một từ hay cụm từ mang tính bổ ngữ theo sau danh từ làm cho danh từ đó rõ nghĩa hơn: Do you remember the doctor who went camping with us? [Dùng the ở đây để nói đến người bác sĩ đi cắm trại].

5. Văn cảnh hay tình huống làm cho danh từ rõ ràng. Chẳng hạn như please close the door, ở đây chúng ta dùng the bởi vì cả hai người đều biết cái cửa nào được đề cập đến.

Nguyên tắc chung: Để chọn đúng mạo từ cho một danh từ, cần phải xác định xem danh từ là số ít hay số nhiều. Một cách dễ dàng để xác định số ít hay số nhiều là chúng ta tự hỏi có thể đặt one trước danh từ đó không. Chẳng hạn như chúng ta có thể nói one experiment, nhưng không thể nói one knowledge. Nếu danh từ không phải là số ít, thì danh từ đó ắt phải là số nhiều hay không đếm được (uncountable noun). Bảng sau đây chỉ cách dùng mạo từ dựa vào 2 yếu tố vừa đề cập:

1. Danh từ số ít.

(a) Nếu danh từ đó mang tính xác định, dùng the.

The book in the bookcase was given to me by an old friend.

(b) Nếu danh từ đó không mang tính xác định, dùng a/an.

My lunch consisted of a sandwich, two cookies, and a can of water. (sandwich và can là danh từ số ít, chúng có thể là danh từ xác định nếu người viết và người đọc đều biết đến hay đề cập trước đây. Tuy nhiên, ở đây chúng ta chọn a để nói rằng cả hai người viết và đọc đều không biết hai vật thể này)

2. Danh từ số nhiều hay không đếm được.

(a) Nếu danh từ không mang tính xác định, dùng a/an.

The technical papers that I gave you last week are top secret. (Số nhiều và xác định)

The wool that is produced in New Zealand is used to make sweaters and other garments. (Wool là danh từ không đếm được nhưng xác định do có cụm từ “produced in New Zealand”)

(b) Nếu danh từ đó không mang tính xác định, không dùng mạo từ.

Long papers are difficult to read. (Ở đây papers là số nhiều và không xác định)

Ngoài ra, nên nhớ rằng một số nước và địa điểm phải có the:

The United States of America
The United Kingdom
The Soviet Union
The United Nations (the U.N.)
The Organization of Petroleum Exporting Countries (OPEC)
The Empire State Building
The University of Virginia

Chúng ta biết rằng a dùng trước một danh từ với phụ âm như a house, a large rock, và an dùng trước một danh từ với nguyên âm như an interesting subject, an experiment. Nhưng với những danh từ bắt đầu bằng nguyên âm u có thể dùng a hay vì an bởi vì u thường đọc là yu. Do đó, chúng ta có thể viết a university, a urban population, a useful idea. Những danh từ có gốc tiếng Pháp với phụ âm h cũng có thể dùng a: an heir to the throne, an hour-long lecture, an honorable agreement, v.v...

Bài tập

Thử điền vào các khoảng trống sau đây bằng mạo từ the, a/an, hay không có mạo từ (điền 0).

1. _______(a) Decline and Fall of ______(b) Roman Empire

2. ________(a) complexity of _______(b) problem of ______(c) decline and fall of the Roman Empire is made evident by _______(d) wide variety of causes that are emphasized in varying degrees by _______ (e) different authors.

3. Fortunately, ________(a) concise formulation of Edward Gibbon serves as _________(b) widely accepted basis for _______(c) modern discussion of _________(d) problem.

4. According to Gibbon, _________(a) empire reached its peak during _______(b) administration of ________(c) two Antonines.

5. After that, however, ________(a) extent of ________(b) Roman conquest became too great to be managed by _______(c) Roman government, and _______(d) decline began.

6. ______(a) military government was weakened and finally dissolved as ______(b) barbarians were allowed to constitute ______(c) ever-growing percentage of ______(d) Roman legions.

7. ______(a) victorious legions began to dominate and corrupt _______(b) government, weakening it at ______(c) time when it most needed ______(d) strength to overcome _______(e) other problems.


Một trong những lỗi tiếng Anh mà sinh viên Việt Nam thường hay mắc phải là cách dùng mạo từ (article). Thú thật với các bạn, chính tôi phải mất hơn 5 năm trời tiếp xúc và học hỏi tiếng Anh ở ngoài này mới dùng mạo từ đúng được. Ấy thế mà thỉnh thoảng tôi vẫn dùng sai (nhưng may phước là tôi biết mình … sai)!

I have a good news for you.
The men are national beings.
The boys leave the school at four o'clock.
He sent a word that he would come soon.
I have read the Shakespeare's Macbeth.
You cannot set a foot in this house.
The envy is an evil passion.
He has not yet gone to the bed.
He is Daniel in judgment.
He made very wise decision.
Fire broke out in our village.
Andamans are a group of islands.


Được sửa bởi k_k ngày Wed Apr 28, 2010 10:43 pm; sửa lần 1.
Về Đầu Trang Go down
https://cdav9.forumvi.com
k_k
Admin
k_k


Tổng số bài gửi : 139
Join date : 28/05/2009
Age : 36
Đến từ : Tây Ninh - quê hương tui

Tiếng Anh bài 10 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tiếng Anh bài 10   Tiếng Anh bài 10 EmptyWed Apr 28, 2010 10:24 pm

Link e-book :http://dulibook.50webs.com/
Về Đầu Trang Go down
https://cdav9.forumvi.com
 
Tiếng Anh bài 10
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Tiếng Anh bài 5.
» Tiếng Anh bài 7
» Tiếng Anh bài 9
» Người Anh nói tiếng Anh như thế nào?
» tìm lớp học tiếng trung

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
CDAV9 Family :: Forum - Diễn đàn của pà kon AV9 :: _____________________________________________________________ :: Public forum-
Chuyển đến