Paragraph
Không nói ra thì ai cũng biết paragraph là một đoạn văn, và một đoạn văn bao gồm nhiều câu văn (sentence). Nói cụ thể hơn, một paragraph có thể xem là một tiểu luận nhỏ. Điều này có nghĩa là chúng ta phải tuân theo những qui luật cơ bản trong cách viết một tiểu luận (essay). Những qui luật cơ bản đó là: cung cấp cho người đọc biết điểm gì chúng ta muốn phát biểu trong phần đầu của paragraph, phát triển chủ đề bằng cách sử dụng ví dụ cụ thể, rồi sau đó là kết luận một cách có suy nghĩ.
Câu văn đầu tiên của một paragraph phải là câu văn “thông báo” đề tài chúng ta muốn cung cấp cho người đọc. Chính vì thế mà câu văn đầu thường phải viết chung chung, không mang tính cụ thể. Chúng ta thử xem một đoạn văn sau đây của Samuel P. Huntington (một nhà khoa học chính trị nổi tiếng, và đối với tôi ông cũng là một cây bút tuyệt vời):
The United States is becoming increasingly diverse ethnically and racially.The Census Bureau estimates that by 2050 the American population will be 23 percent Hispanic, 16 percent black and 10 percent Asian-American. In the past the United States has successfully absorbed millions of immigrants from scores of countries because they adapted to the prevailing European culture and enthusiastically embraced the American Creed of liberty, equality, individualism, democracy. Will this pattern continue to prevail as 50 percent of the population becomes Hispanic or nonwhite? Will the new immigrants be assimilated into the hitherto dominant European culture of the United States? If they are not, if the United States becomes truly multicultural and pervaded with an internal clash of civilizations, will it survive as a liberal democracy? The political identity of the United States is rooted in the principles articulated in its founding documents. Will the de-Westernization of the United States, if it occurs, also mean its de-Americanization? If it does and Americans cease to adhere to their liberal democratic and European-rooted political ideology, the United States as we have known it will cease to exist and will follow the other ideologically defined superpower onto the ash heap of history.
Câu đầu tiên (The United States is becoming increasingly diverse ethnically and racially) cho chúng ta biết chủ đề của đoạn văn nói về sự đa dạng sắc tộc trong xã hội Mĩ. Những đoạn sau đó, ông trình bày dữ liệu để làm cơ sở cho nhận xét của mình. Câu cuối cùng trong đoạn văn nói về ý nghĩa của vấn đề đa sắc tộc và cảnh báo rằng Mĩ đứng trước nguy cơ mất identity vì tình trạng này.
Nhưng thỉnh thoảng, nhất là trong khoa học, chúng ta cũng không nhất thiết phải tuân thủ theo qui luật trên. Có khi chúng ta trình bày ví dụ trước (để thu hút chú ý của người đọc) và tiếp theo sau là một hay vài câu văn giải thích ý nghĩa của ví dụ đó. Đoạn văn ngắn sau đây là một ví dụ:
Đầu tiên, gây chú ý cho độc giả:
Since H2-blockers became available over the counter (OTC) in drug stores, physicians have reported that some public assistance patients have ceased their use of these medications and are experiencing recurrences of epigastric distress.
Sau đó là vài câu văn chung chung về ý nghĩa của câu văn trên:
Sometimes, regulations that are intended to make drugs more available to patients have a paradoxical effect of reducing their use. [đoạn văn này sau đó giải thích tại sao] Because welfare patients could previously get the H2-blocker drugs at no personal cost by prescription, but now that the drugs are available OTC, they are no longer eligible for prescription and patients must pay for the medication.
Viết bài báo khoa học cũng giống như viết tiểu thuyết trinh thám, hiểu theo nghĩa phải hấp dẫn người đọc ngay từ đầu, và làm cho người đọc không buông được câu chuyện. Tôi thường hay nói với nghiên cứu sinh là phải cố gắng viết bài báo sao cho hay, hay đến nỗi nếu tổng biên tập một tập san nào từ chối không đăng thì ông/bà đó cũng cảm thấy hối hận, nuối tiếc. :-) Do đó, cấu trúc một đoạn văn rất ư quan trọng, vì những câu văn trong đó dìu dắt và cung cấp người đọc những tình (chi) tiết cụ thể và thuyết phục. Xin nhắc lại tầm quan trọng của một đoạn văn: nó là một tiểu luận nhỏ.
Tiếng Anh bài 6. Thì, dạng, và số chữ cho một động từ
1. Thì (tense)
Một trong những sai lầm tôi hay phát hiện khi duyệt các bài báo khoa học là cách sử dụng thì trong bài báo. Chẳng riêng gì từ các tác giả Á châu mà ngay cả các tác giả Âu Mĩ cũng vấp phải sai lầm này. Sau đây là một số qui định (thật ra, chính xác là qui ước) về cách sử dụng thì trong một bài báo khoa học.
Nếu mô tả phương pháp và kết quả nghiên cứu của công trình đang báo cáo, dùng thì quá khứ (past tense):
We found that one third of the rats survived, one thrid died, and the third rat got away.
Nếu đề cập đến một công trình đã công bố trước đó trên một tập san nào đó, sử dụng thì hiện tại (present tense):
In their groundbreaking work, Smith et al report a 33% survival rate in the test population.
2. Active hay passive voice
Xin nhắc lại: một câu văn như We found that gọi là active voice (dạng chủ động), còn it was found that thì được gọi là passive voice (dạng thụ động). Câu hỏi đặt ra là trong bài báo khoa học, chúng ta nên sử dụng dạng nào? Đây là một vấn đề mà cho đến nay, theo tôi biết, vẫn chưa ngã ngũ.
Khoảng 20 năm trước, khi tôi và đồng nghiệp nộp một bài báo quan trọng cho British Medical Journal tổng biên tập và 3 chuyên gia bình duyệt lúc đó đồng loạt phê bình tôi vì tôi sử dụng dạng chủ động. Họ yêu cầu tôi phải sửa lạt tất cả từ dạng chủ động sang dạng thụ động. Sửa xong, nộp lại và qua lần bình duyệt thứ hai, họ từ chối công bố! Nhưng khoảng 5 năm trở lại đây cũng chính tập san này (và Lancet nữa) lại khuyến khích sử dụng dạng chủ động.
Qua theo dõi các tập san y khoa trong thời gian gần đây, tôi có thể nói rằng càng ngày càng có nhiều bài báo mà trong đó tác giả sử dụng dạng chủ động. Như vậy, xu hướng chủ động này đang dần dần trở thành một qui ước chuẩn. Xin lấy vài ví dụ:
The Lancet 2004;363:112-118
“We followed up children once a day for diarrhoea and a month for anthropometry …”
New England Journal of Medicine 2004;350:114-124
“We enrolled 518 patients with polycythemia vera …”
British Medical Journal 2001; 323:382-386
“I searched the Cochrane Library, Medline, and Embase to identify studies of common pathological finding in ….”
Tuy nhiên, cũng có trường hợp mà theo tôi sử dụng dạng thụ động là cách “lịch sự” nhất. Chẳng hạn như khi chúng ta thực hiện một việc gì đó kém quan trọng hơn là người tiếp thu công việc đó. Ví dụ:
The patient was injected with the test drug
đọc chắc chắn dễ chịu hơn là
We injected the test drug into the patient
Hay trong trường hợp một việc làm mà người làm có thể không quan trọng mấy:
The patients were randomized into two groups by a computer program
Trong trường hợp này, ai làm ngẫu nhiên hóa cũng được, chứ chẳng cần “I” hay “We”.
3. Số chữ cho mỗi động từ
Động từ là một từ hành động trong một câu văn. Do đó, các chuyên gia tiếng Anh cho biết có thể đếm mật độ chữ trên mỗi động từ để biết một câu văn yếu hay mạnh. Nếu câu văn có 20 chữ trên mỗi động từ thì câu văn đó được xem là yếu. Ví dụ:
The use of an excessive number of words in conjunction with a single verb makes for a weak sentence, deficient in strong words, often complex in structure, and very likely complicated by a number of subordinate clauses. (37 từ!)
4. Cố gắng làm phong phú câu văn
Chúng ta thử đọc câu văn sau đây:
The elderly patient fell on a scatter rug at home. The patient struck his shoulder when he landed. The patient sustained a fracture of left humerus.
Ba câu văn bắt đầu bằng một chữ lặp đi lặp lại 3 lần: patient. Ba câu văn rất đơn giản, ngắn, và có thể nói là khá nhàm. Cách viết này cho thấy tác giả không có kinh nghiệm viết văn.
Do đó, để làm cho câu văn sống động, nên cố gắng sử dụng biến thể, và tránh lặp lại một từ nhiều lần. Câu văn trên có thể sửa lại như sau:
The elderly patient fell on a scatter rug at home, striking his shoulder and sustaining a fracture of the left humerus.
NVT
Posted by Nguyễn Văn Tuấn at 2:59 PM